Thứ Bảy, 17 tháng 7, 2010

song vui, song khoe
Posted by Picasa

Thứ Năm, 6 tháng 5, 2010

Chùm thơ 5 CHUYỆN KỂ VỀ NHỮNG CHUYỆN KỂ của Nguyễn Vĩnh Nguyên

Chuyện kể buổi chiều

Một buổi chiều đẹp trời
Anh
Thắt lại dây nịt quần
Và lắng nghe rất lâu
Tiếng một con mèo đang động dục ngoài vườn.


Chuyện kể ở cái hốc kẹt còn sót lại

Họ đi đâu về mà đông vậy
Từng đàn người
Từng bầy người
Từng dòng người
Từng thác lũ người trùng trùng lớp lớp

Họ đi đâu về mà đông vậy
Những balô xanh đỏ chất đầy các logo lung linh hàng second-hand
Những đôi mắt rực sáng
Vùng trời kia – trong câu chuyện của họ - đang very happy!
Một vài người trong số họ cúi mặt
Nhìn cái chết chế ngự từ ngày đi
Cái chết ba mươi lăm năm chụp xuống từng bước chân, thế ngồi, giấc ngủ, trạng thái nghĩ suy, manh nha cảm xúc
Rồi đây, hậu duệ có còn nhớ
Ai sẽ hát bài ca bi hùng giữa hai bờ sóng máu
Giải thiêng những cuộc về!

Nhưng hiện thời
ở cái hốc kẹt sót lại của mặt đất
nơi này
tôi vẫn nhìn thấy phía sau lưng dòng người hàng đêm đi qua giấc mơ không hẳn quay lưng không chắc trở lại kia
là những cụ bà vừa run run kí vào đơn giao đất giao ruộng được tuyên dương trên bản tin tối:
- Cám ơn đảng, cám ơn nhà nước!





Chuyện kể về ước mơ của thành phố

Những chiếc loa cưỡng bức không gian bằng các bản nhạc thời chiến
Vọng vang qua vách những building
Thành phố buổi sáng ấy
Như một người xơ vữa động mạch
Tắc nghẽn ba giờ liền
Để hoài niệm một giấc mơ bầy đàn

Một chuyến xe du lịch ru ngủ lữ khách bằng đĩa nhạc tình não nề cũng thuộc về thời chiến
Nhưng chẳng ai ngủ quên
Đơn giản là đang kẹt xe
Và tài xế thì chửi tục

Thành phố cao huyết áp
Sẽ dành riêng ba ngày cho tông màu của máu chảy tràn
Những con đường đạt đến cao điểm của chứng xơ vữa động mạch trầm kha

Nơi trục giao thông nghẽn ứ
Một người đàn ông ba mươi hai tuổi ngửa mặt lên trời chửi tục bằng thứ giọng của kẻ chiến thắng:
- Bố khỉ những cái hàng rào!
Một cô gái ngoái lại và hát bằng giọng nhập cư:
- Con đường ta qua đến nay bao tuổi…
Một gã trung niên kéo mắt kiếng đen và tự nhủ bằng thứ giọng không hẳn là của gã:
- Sao họ lại bảo ta là chó săn?

Một nhà thơ tranh thủ viết lại bài thơ này dưới dạng tin nhắn mobile và định lòng sẽ công bố trên mạng.


Chuyện kể về những nhà thơ

Họ viết bằng ấy
Và nói bằng ấy
Rồi nghĩ bằng ấy

(Họ nghĩ rằng như thế sẽ không ai thấy!)




Chuyện kể về chuyện kể

Tôi có điều này muốn nói
Tôi có điều này muốn nói mà không dám nói
Tôi có điều này muốn nói mà dám không nói nhưng đã nói về sự muốn nói
Tôi có điều này

Tôi có điều này
Tôi có điều này muốn nghĩ nhưng không dám nghĩ
Tôi có điều này muốn nghĩ nhưng không dám nghĩ nhưng đã nghĩ về sự không dám nghĩ
Tôi có điều này muốn nghĩ

Tôi có điều này muốn nghe nhưng không dám nghe nhưng đã nghe về sự không dám nghe
Tôi có điều này
Tôi có điều này muốn nghe
Tôi có điều này muốn nghe nhưng không dám nghe

Tôi có điều này
Tôi có điều
Tôi có
Tôi
[ ]

Thứ Hai, 12 tháng 4, 2010

CÀ PHÊ GIVRAL NGÀY 4.4.2010. ?nh nguy?n vinh nguyên
Posted by Picasa

Thứ Bảy, 20 tháng 3, 2010

Posted by Picasa

Thứ Ba, 27 tháng 10, 2009

Philip Roth bi quan về tương lai của tiểu thuyết



Tiểu thuyết gia Philip Roth tiên đoán, trong vòng 25 năm nữa, sự ủng hộ của độc giả dành cho sách tiểu thuyết sẽ rơi vào cảnh "chợ chiều/Corbis
Trả lời phỏng vấn nhà báo Tina Brown, chủ bút tờ The Daily Beast, nhà văn này phân trần: "Thật sự tôi đã giữ tinh thần lạc quan với tiểu thuyết trong khoảng 25 năm rồi. Tôi nghĩ rằng luôn luôn sẽ có người đọc chúng nhưng sẽ chỉ là một nhóm ít người".
Tuy vậy, hiện tại ông khẳng định, sách vở không thể đương đầu và cạnh tranh nổi với màn ảnh và sự phát triển của khoa học kỹ thuật.
"Ấn bản in là một vấn đề lớn, chính bản thân cuốn sách đã là một vấn đề. Để đọc một cuốn sách đòi hỏi phải có sự tập trung nhất định, sự chú ý và đắm mình trong việc đọc. Nếu bạn đọc một cuốn tiểu thuyết trong hơn 2 tuần liền thì thật sự bạn chẳng đọc gì cho ra hồn cả. Do đó, có thể nói sự tập trung, chú ý, sự chăm chú, sự lưu tâm vào việc đọc trong bối cảnh hôm nay là rất khó để đạt được - thật rất khó để tìm thấy một số lượng đông đảo người, một nhóm người và một số người đạt được những phẩm chất đó", ông nói.
Theo Guardian, tiểu thuyết gia này cũng nghi ngờ sự phát triển của những
thiết bị đọc sách, chẳng hạn như Kindle, cũng sẽ không tạo nên sự khác biệt nào. "Cuốn sách không thể nào đấu lại với màn hình máy tính. Nó không thể nào đấu lại với màn ảnh rộng. Sách không thể đấu lại với màn ảnh nhỏ. Hiện nay, chúng ta có đủ thứ các loại màn ảnh, và khả năng chống chọi của sách với các loại màn ảnh là rất khó khăn".
Cuốn tiểu thuyết mới của Roth là The Humbling, phát hành vào cuối tuần này, và đã sớm nhận được một bài phê bình đầy chỉ trích trên tờ Observer. Báo này gọi tác phẩm của tiểu thuyết gia là "câu khách hết sức rẻ tiền".
Còn Phillip Roth thì khẳng định, cũng giống như nhân vật Simon Axler, một diễn viên sân khấu già, người cuối cùng "đánh mất sự kỳ diệu của bản thân" trong cuốn The Humbling, nhà văn luôn lo lắng về việc sẽ cạn nguồn ý tưởng viết lách. "Luôn luôn mỗi khi tôi hoàn thành một tác phẩm, tôi đều nghĩ "Mình sẽ làm gì đây? Mình sẽ tìm cảm hứng viết lách ở đâu đây?. Tôi cứ viết và xuất bản bởi vì tôi không thể chịu đựng nổi cảm giác không có tác phẩm để hoàn thành... Đó không phải là cảm giác được nói hay không nói điều gì trong cuốn sách, hoặc là cuốn sách sẽ nói lên điều gì, mà chính là tôi muốn cảm giác được đắm mình trong tiến trình viết lách khi tôi còn đang sống".
Phillip Roth không chỉ bi quan về tương lai của tiểu thuyết mà trước đây, vào năm 2001, trong cuộc trò chuyện với tờ Observer, ông bày tỏ sự quan ngại về văn hóa Mỹ: "Tôi không giỏi trong việc tìm kiếm những đặc trưng đầy tính "khích lệ" trong văn hóa Mỹ. Tôi nghi ngờ việc thị hiếu thẩm mỹ có nhiều tương lai phát triển ở xứ sở này"Thoại Hà.- theo evan

Thứ Tư, 21 tháng 10, 2009

"Thế giới của loài người chỉ còn là một chuỗi suy vong"




Xin được đăng lại bài viết này (tựa do NVN đặt) của tác giả Bảo Thạch đăng trên trang RFI ngày 28/11/2008, nhân sinh nhật thứ 100 của nhà nhân học, triết gia Claude Lévi-Strauss. Và xin hé lộ một tin vui với độc giả tiếng Việt: cuốn Nhiệt đới buồn của nàh tư tưởng này sẽ được NXB Tri thức cho ra mắt trong tuần tới.


Là một nhà triết học chọn một lối đi không có sẵn, một thành viên của Viện Hàn Lâm Pháp, Claude Lévi-Strauss đã từng tuyên bố : chưa bao giờ ông muốn thay đổi thế giới này về mặt chính trị.
Khi ta nhìn sát vào cuộc đời và cuộc chiến đấu của Claude Levi -Strauss, nhan đề cuốn sách của Gabriel Garcia Marquez đột ngột hiện lên trong đầu ta : "Trăm năm cô đơn". Một cuộc đời thế kỷ đã đi hết cái thời của mình. Đi ngược lại mọi thứ mốt, dường như cuối cùng ông đã không yêu cái thế kỷ này. Thế kỷ thuộc về ông là thế kỷ 19 và 18. Những tác giả quan trọng của ông là Jean Jacques Rousseau, François-René de Chateaubriand.

Ông đã giữ lại từ các bậc thầy tư tưởng này sự nhạy cảm vô cùng lớn đối với mọi sinh linh, mọi vật thể, đối với thế giới tự nhiên, và các phong cảnh của thế giới nội tâm. Để rồi sau đó, ông cũng sẽ tiến hành mô tả cái hiện thực sống sượng, nhưng là với một phong cách thơ. Nhân vật Đông-ki-sốt trong dân tộc học này xuất thân từ một dòng họ Do Thái vùng Alsace.

Cha ông là họa sĩ, ông nội là rabbin – một chức sắc trong đạo Do thái. Levi-Strauss kể rằng, ông đã chứng kiến được ngay từ sớm phong trào bài Do thái trong giờ chơi tại trường học, và cũng đã sớm phát hiện ra một cách đột ngột rằng mình đã bị cả một cộng đồng, mà bản thân ông trước đó vẫn tin mình là một thành viên khăng khít, chống lại.

Thực tế này đã dẫn chàng thanh niên đến chỗ giữ một khoảng cách với hiện thực đương thời. Phải chăng chính cái khốc liệt của thực tế vốn đã dẫn ông đến với các thổ dân châu Mỹ ở vùng Amazone ấy, đã mang lại cho ông nguồn cảm hứng về sứ mệnh để khiến ông trở thành một nhà nhân học quan trọng nhất của thế kỷ XX?

Không có thể nói được gì chính xác về điều này. Là một nhà triết học chọn một lối đi không có sẵn, một thành viên của Viện Hàn Lâm Pháp, Claude Levi-Strauss đã từng tuyên bố : chưa bao giờ ông muốn thay đổi thế giới này về mặt chính trị. Nếu tôi viết, ông nói, và tôi chụp các bức ảnh này, chính là để bảo tồn lại những ký ức về cái thế giới đang biến đổi trước mắt chúng ta, một di sản mênh mông thấm đẫm hương vị của tha nhân.

Quy tắc cấm loạn luân

Trong các tác phẩm lớn của Levi-Strauss, có quyển Các cấu trúc cơ bản của quan hệ thân tộc (Structures élémentaires de la parenté) hay các quyển mang tên Nhân học cơ cấu 1 và 2 (Anthropologie structurale) trong đó, ông nêu bật những hình thức bất biến ví dụ như quy tắc cấm loạn luân.

Claude Levi-Strauss coi việc cấm loạn luân như là nền móng của sự phân chia giữa thiên nhiên và văn hóa. Thiên nhiên tuân theo các qui luật mà không chấp nhận bất cứ ngoại lệ nào. Các hành tinh trong vũ trụ đi theo các lộ trình tuân thủ các qui luật do nhà vật lý thiên văn Kepler phát hiện ra, ngược lại, văn hóa cấu thành nên một thế giới với các qui tắc có thể điều chỉnh được : ví dụ mầu trắng là cái tượng trưng cho việc tang ở Nhật Bản, trong khi ở phương Tây, lại được tượng trưng bởi mầu đen. Tuy vậy, trong tất cả các xã hội, đều tồn tại một quy luật chung, đó là việc cấm loạn luân. Chúng ta có thể luôn luôn tìm thấy các qui tắc cấm một số quan hệ liên minh hôn nhân trùng với một số các quan hệ mà chúng ta gọi là các quan hệ máu mủ.


Việc cấm loạn luân như vậy đối lập với sự quần hôn của thế giới động vật. Việc cấm lọan luân này là chung đối với tất cả các xã hội, nhưng nó lại biến thiên tùy theo từng nhóm khác nhau : ở châu Âu theo Thiên chúa giáo, việc cấm loạn luân này chủ yếu liên quan đến những thế hệ tiền bối và các hậu duệ trực tiếp, và các thành viên của một tộc họ, trong các xã hội khác, nó liên quan đến tất cả các thành viên của một gia đình rất rộng, trong một xã hội khác nữa, việc nghiêm cấm loạn luân lại đi kèm với một nghĩa vụ hôn nhân với một hôn hay hôn phụ thuộc vào một nhóm khác của dòng họ.


Như vậy, một cậu con trai phải cưới một cô gái, ra đời từ cuộc hôn nhân của người anh em với cha mình – gọi là "người em họ song song" – trong khi cuộc hôn nhân với một người con gái xuất thân từ cuộc hôn nhân của chị em của cha mình – một "người em họ giao chéo" - lại bị cấm. Hôn nhân, vả lại, theo Levi-Strauss, không phải là để đáp ứng các nhu cầu của đời sống tình dục, mà là các nhu cầu kinh tế : "Chính là nhờ sự phân chia lao động giữa hai giới mà việc hôn nhân trở nên có thể thực hiện được" (trích trong tiểu luận « Gia đình », trong Cái nhìn cách biệt, Nxb Plon, 1983).

Đối với Levi-Strauss việc cấm kỵ lọan luân này là một trong ba hình thức trao đổi cấu thành nên xã hội : trao đổi các phụ nữ, trao đổi các biểu trưng, và trao đổi các tài sản.

Những năm 60 và 70 của thế kỷ trước, học thuyết cấu trúc và can quan niệm của Claude Levi-Strauss ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực, nghệ thuật, văn học, chính trị và triết lý.
Ngay tại Việt Nam, học thuyết này của Claude Lévi-Strauss đã hấp dẫn nhiều học giả. Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn, trong tập sách tôn vinh Nguyễn Từ Chi, một nhà văn hoá xuất sắc của Hà Nội, đã kể lại rằng : Có lần đã lâu, khi học thuyết cấu trúc Levi-Strauss còn mới lạ với giới khoa học Việt Nam, không nề hà, ông Từ Chi đã trình bày liền 4 buổi cho một số nhà nghiên cứu của Viện Dân Tộc học Hà Nội và các viện bạn. Kết quả gây nên rắc rối với ông ông Từ Chi.


Tác phẩm "Miền Nhiệt đới Buồn"

Đây là kể một câu chuyện đã xưa. Nhưng với bạn đọc, khi cầm các tác phẩm của Levi-Strauss trong tay, chắc chắn sẽ phát hiện được nhiều điều mới lạ. Đối với quảng đại đọc giả ở Pháp thì thân thuộc nhất trong các tác phẩm của Claude Levi-Strauss là tập ký sự mang tên : Tristes Tropiques - Miền Nhiệt đới Buồn - xuất bản năm 1955.

Xin tiết lộ với những ai muốn đọc Levi-Strauss, sự ngạc nhiên thú vị của bản thân tôi, và niềm say mê với tác phẩm này khi khám phá dưới ngòi bút của ông tính vượt trội của Phật giáo, so với Thiên Chúa giáo hay Hồi giáo, bởi vì theo Levi-Strauss, trong đạo Phật không có thiên đàng hay điạ ngục.

Ông viết, trang 489, như sau : ''Con người đã 3 lần nổ lực xây dựng 3 tôn giáo lớn để tự giải phóng khỏi nổi ám ảnh của hình bóng những kẻ đã lià đời, của cái xấu, cái ác hiện về từ cỏi âm, và để thoát lên trên nổi sợ hãi ma thuật.

Con người đã thiết kế theo trình tự thời gian, Phật giáo, rồi Thiên Chúa giáo và cuối cùng là Hồi giáo. Mỗi tôn giáo này nẩy sinh cách nhau khoảng 500 năm. Thật vô cùng ngoạn mục, quan sát thấy mỗi chặng đường tiếp nối này, thay vì đánh dấu một bước tiến so với chặng đường trước, lại bộc lộ một sự thụt lùi !

Đối với Phật giáo, không có Thiên Đàng, không có sự sống sau cái chết. Bởi vậy Phật giáo thể hiện sự phê phán triệt để nhất và loài người sau này, đã không thể đi xa hơn. Trong Phật giáo, nhà Hiền triết tìm thấy sự giải thoát trong việc chối từ ý nghiã của vạn vật và của con người. Hành vi này đã xóa bỏ vũ trụ và cũng xóa bỏ luôn cương vị tôn giáo của mình.

Đến sau Phật giáo, Thiên Chúa giáo đã sa vào nỗi sợ, Thiên Chúa giáo tái lập thế giới bên kia cuộc sống, với những niềm hy vọng, những mối đe dọa và ngày phán xét cuối cùng.

Đạo Hồi, sau Thiên Chúa giáo đã nối tiếp chặng đường này và hoà nhập cõi đời với đạo giáo. Trật tự xã hội được tân trang với sức mê hoặc của điều siêu nhiên, chính trị trở thành thần học.''

"Thế giới của loài người chỉ còn là một chuỗi suy vong"

Sau cả một chương dài tôn vinh Phật giáo như trên, Claude Levi-Strauss kết luận : Con người chỉ sáng lập được điều kỳ vĩ ở thuở ban đầu. Ngày nay, thế giới của loài người chỉ còn là một chuỗi suy vong được dự báo : ông thốt rằng : '' thế giới này đã khởi đầu khi chưa có bóng dáng con người và thế giới này cũng sẽ tàn lụi khi không còn con người".


Dường như đối với ông, khoáng vật, thảo vật và động vật hiện hữu một cách ngang bằng với con người. Đối với những ai còn đa nghi ông nói : "Hãy chiêm ngưỡng một thạch thể đẹp hơn mọi công trình sáng tạo. Hãy chiêm nghiệm mùi hương thơm toát lên từ một đoá huệ, tinh tế hơn tất cả những quyển sách chúng ta từng thảo ra. Hãy tìm đến cái nháy mắt đồng cảm, nhưng không chủ tâm, với một chú mèo, đậm tính nhẫn nại, thanh thản và bao dung''.

Tristes Tropiques, Miền Nhiệt đới Buồn chấm dứt với lời an ủi kể trên.

Thứ Ba, 20 tháng 10, 2009

JMG Le Clézio: Không thể ngăn được sự lai tạp




Nét mặt cứng cỏi, hấp dẫn kiểu nam tính, ông giống một bức tượng trên đảo Phục Sinh mặc áo vest xanh da trời, đi giày thể thao trắng. Với bản tính điềm tĩnh kiểu quý tộc thế hệ mới, nhà văn nói về cuốn tiểu thuyết mới, những chuyến đi xa, số phận của châu Âu nói chung và của tiểu thuyết nói riêng.
- Ông vừa trở về từ Hàn Quốc. Người ta đã biết đến sở thích của ông đối với Tân thế giới hay Ấn Độ Dương, chứ chưa biết nhiều đến sở thích đối với Cực Đông…
- Tôi đến Hàn Quốc thường xuyên đã được bảy năm nay. Lần đầu tiên là để dự một hội thảo văn chương với nhà văn người Nhật Kenzaburo Oe. Tôi rất gắn bó với đất nước này. Năm ngoái, tôi còn dạy một kỳ về thơ và họa tại Đại học Seoul, giáo cụ là một chiếc đĩa CD về bảo tàng Louvre. Đó là một trường nữ sinh và các sinh viên của tôi nói tiếng Pháp thành thạo, họ lại rất quan tâm đến vị trí của người phụ nữ trong hội họa phương Tây: họ thuyết trình về bức La Joconde, về bức chân dung Marie-Antoinette qua nét vẽ của Phu nhân Vigée-Lebrun. Việc dạy học trở nên thật thú vị khi chính người thầy lại học được điều gì đó từ các học trò của mình.
- Vốn được mệnh danh là thi sĩ của sa mạc, ông không thấy là Hàn Quốc quá phương Tây, quá đông đúc, quá Cơ Đốc đối với mình sao?
- Thế giới đang phương Tây hóa mà. Nhưng như Sok-Yong Hwang, tác giả cuốn Khách mời, đã nói: Ai nói với các vị Chúa Jesus không phải là người Hàn Quốc nào? Seoul cũng không náo nhiệt hơn những thành phố mười triệu dân khác trên thế giới này.
- Giữa Hàn Quốc, New Mexico hay Pháp, từ nay ông sẽ sống ở đâu? Nghe nói ông có ý định chuyển về sống ở Bretagne?
- Tôi không có kế hoạch nào cho trung hạn, còn dài hạn thì chúng ta chết cả rồi. Tôi vẫn đang sống tại Mỹ. New Mexico là một nơi thuận lợi cho việc sáng tác, nó vẫn là nơi dừng chân thường xuyên của tôi. Tôi tới đó để chạy trốn sự hoảng loạn của thế giới hiện đại. Trước nhà tôi có một mảnh đất hoang, và không xa đó là Rio Grande, một vùng hoang vu, ngay ở đất nước đô thị hóa và gây ô nhiễm nhất hành tinh. Còn Bretagne ư? Quả là tôi đã nghĩ đến chuyện dọn về đó. Ở đó tôi có một ngôi nhà, những mối quan hệ họ hàng và tôi cảm thấy gần gũi với lối sống của Bretagne.
- Ông thấy nước Pháp của năm 2008 thế nào, theo những gì cảm nhận được qua chuyến lưu lại Pháp vừa rồi?
- Rất phương Tây! Gạt chuyện đùa cợt sang một bên, tôi hơi ngạc nhiên bởi chủ nghĩa bi quan xung quanh. Tại Hàn Quốc, đất nước có mức sống kém hơn nhiều, người dân cũng không bi quan đến thế, họ biết cuộc sống không dễ dàng gì và họ đã quen với phải vật lộn tranh đấu rồi.
- Ông từng tuyên bố mình đã "qua cái tuổi trả thù", nhưng "Khúc lặp của cơn đói" (Ritournelle de la faim), tiểu thuyết mới đây của ông lại hết sức dữ dội, không hề nguôi ngoai, lên án mạnh mẽ tội lỗi của xã hội Pháp đối với người Do Thái và các dân tộc thuộc địa.
- Tôi không phải tuýp người hay ngọt nhạt. Như nhà sinh vật học Jean Rostand đã nói: "chân lý tất yếu có vị báo thù". Ngày còn nhỏ, tôi đã sống qua những đòn trả đũa sau cùng của cơn địa chấn mang tên Đại chiến II. Tôi nhớ về cái câu mang tính phân biệt chủng tộc hay bài Do Thái từng nghe trong họ hàng tôi gần cũng như xa: "chiến tranh đã diễn ra, mà họ không hề hay biết gì". Khi còn là trẻ con, người ta không hiểu điều đó nghĩa là thế nào, nhưng người ta vẫn bị sốc, theo bản năng.
- Giữa bức tranh ấy, nhân vật Ethel, lấy cảm hứng từ mẹ ông, là một "người kháng chiến", ngay cả khi cô ấy không mang vũ khí.
- Đúng thế, những kỷ niệm duy nhất tôi có được về kháng chiến, đó là quân du kích vùng Nice sâu trong nội địa nơi chúng tôi sinh sống. Tôi còn nhớ hồi mới bốn, năm tuổi gì đó đã chơi cùng một anh con trai mười sáu hay mười bảy tuổi. Tôi còn nhớ rõ tiếng bom đã nổ trong tay anh ấy. Chúng tôi chỉ tìm lại được bộ tóc màu đỏ của anh. Anh ấy tên là Mario. Và còn có cả hình thức kháng chiến thụ động và bí mật hơn khi mẹ tôi chống lại thái độ hèn nhát, thời trước, trong và sau chiến tranh. Thậm chí tôi đã đưa vào cuốn tiểu thuyết này những cảnh chính mắt tôi từng chứng kiến, những điều nghe kể lại từ bà và mẹ, trong thế giới không có đàn ông đó, những cái gợi nhớ đến Quỷ thân xác của Radiguet. Tôi đã khám phá thế giới chính qua đôi mắt của những người phụ nữ này.
- Theo tình tiết truyện, mẹ ông đã dự vào việc sáng tác nhạc khúc Boléro của Ravel, và trong căn phòng đó còn có cả nhà nhân chủng học vĩ đại Claude Lévi-Strauss?
- Đúng thế, chính ông ấy đã cho tôi biết chuyện, vào cái thời khi tôi năng gặp ông ấy hơn bây giờ. Cách đây hai năm, ông ấy vẫn còn gửi cho tôi một lời nhắn rất dễ mến để chỉnh sửa một lỗi sai trong cuốn Raga của tôi...
- Theo ông, mối quan hệ giữa phương Tây và Thế giới thứ ba nằm ở đâu?
- Tôi không tin vào một cuộc đối đầu. Tôi ghét Huntington và thuyết xung đột giữa các nền văn minh của ông ta. Thậm chí tôi đã viết một bài đả kích có tên Chống Samuel Huntington, mà tôi chưa công bố.
- Tại sao?
- Bởi vì đó là một bài đả kích. Tôi không cho rằng có tồn tại "chúng ta" và "những kẻ khác", thế giới phương Tây một bên và bên kia là một dạng thế giới dã man, luôn rình đợi những điểm yếu nhỏ nhất của chúng ta. Thực ra, mọi nền văn hóa toàn bộ đều lai tạp, pha trộn, kể cả nền văn hóa phương Tây, vốn hình thành nên từ nhiều yếu tố đến từ châu Phi, châu Á. Ta không thể ngăn sự lai tạp này được. Và tính hiện đại cũng thuộc về Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc không khác gì thuộc về Âu hay Mỹ.
- Ông vẫn rất gắn bó với đảo Maurice. Liệu cuốn sách tiếp theo ông có dành tặng cho hòn đảo này?
- Xã hội Maurice nơi tôi sinh ra không có bất kỳ giá trị nào, đó là một xã hội bóc lột, phân biệt chủng tộc và phân tầng, hơi giống với xã hội được miêu tả trong các tác phẩm của Faulkner, nhưng nó cũng sản sinh ra những cá nhân xuất chúng, tuyệt vời. Trong trường hợp này cũng vậy, cuốn sách này sẽ là một dạng thanh toán nợ nần.
- Ông đã nhiều lần làm giám khảo của các giải thưởng văn học, nhất là giải Renaudot. Trong số các tác giả cùng thời, ông thích những ai?
- Tôi rất thích Marie Darrieussecq, tôi cảm thấy giữa hai chúng tôi có nhiều sự tương đồng. Tôi đánh giá cao cách bà ấy viết về thế giới, như thể đó là một ngoại diên của chính bà, được nhận thức bằng những tế bào thần kinh chứ không phải bằng trí tuệ. Tôi cũng thích nền văn học của những nước nói tiếng Pháp, ngoài nước Pháp ra. Alain Mabanckou là một người xuất chúng, Wilfried N’Sondé, nhà văn người Angola, tác giả của Trái tim của những đứa trẻ báo (Le cœur des enfants léopards), cũng vậy. Ở những con người đó có cùng lúc một bản thể mạnh mẽ và trải nghiệm của những kẻ bị gạt ra ngoài lề, vì đó chính là hoàn cảnh họ gặp phải tại châu Âu. Điều đáng chú ý ở đây, là những cây viết này đều đang hoạt động xã hội tích cực: N’Sondé là giáo viên tư vấn những thanh niên có hoàn cảnh khó khăn tại Berlin.
- Năm vừa qua, ông đã ký vào bản tuyên ngôn cho một nền văn học-thế giới" [
1]?
- Đúng, ký hai lần thì đúng hơn! Cơ may của tiếng Pháp, đó là những dân tộc đã bị Pháp đô hộ trong hàng thế kỷ lại không mang hiềm thù gì với đất nước này. Tôi cho rằng thái độ này xuất phát từ vẻ đẹp của văn học Pháp, từ những cuốn sách hay mà nước Pháp đã sản sinh, thông qua đó con người có thể vượt qua nỗi đau và chấp nhận tiếng Pháp, hơn là tiếng Anh, như phương tiện giao tiếp. Chính nhờ nền "văn học-thế giới" này mà tiếng Pháp vẫn còn có thể chuyển tải thông điệp của mình.
-
Ông còn dành thiện cảm của mình cho ai trong số các tác giả ra sách mùa vừa rồi?
- Tôi rất thích cuốn Chợ tình (Le marché des amants) của Christine Angot. Tôi cảm động bởi cuộc gặp gỡ thương tâm, đau xót giữa một người phụ nữ xuất thân dòng dõi quý tộc với một anh chàng vô sản, bởi sự đối chiếu giữa hai thế giới bất khả quy này.
- Ngày nay tiểu thuyết không phải nạn nhân của thành công của nó sao: khi bất kỳ cuốn sách nào cũng được gọi là "tiểu thuyết"?
- Đó là câu hỏi đã được Raymond Queneau đặt ra: văn học sẽ trở thành cái gì khi mọi người ai cũng viết văn? Giống như toàn bộ sự biểu lộ của nhân loại, tiểu thuyết chỉ có một thời. Ở xuất phát điểm, nó không phải là là cái gì đó được xác định rõ mà chỉ là một câu chuyện được viết ra bằng ngôn ngữ đời thường. Cái tôi đánh giá cao ở tiểu thuyết, đó là nó cho phép nói về bản thân mà như không nói, cho phép phát biểu những ý tưởng triết lý mà không cần phải là triết gia. Đó là một dạng túi du lịch, rất tiện dụng. Thành công của thể loại tiểu thuyết trong vòng một trăm năm trở lại đây là từ đó mà ra. Đó là một dạng rút gọn để nhận biết tình trạng của thế giới, hoặc có lẽ là cả tình trạng của bản thân.
- Nhưng ngày nay, mấy ai còn đọc "Le Grand Cyre" hay "L’Astrée", những bản sách được đông đảo công chúng biết đến trong thế kỷ XVII? Đến thế kỷ XIX, tiểu thuyết đã đẻ ra thể loại tâm lý, hiện tại nó lại thoát khỏi thể loại này.
- Tôi không chắc về độ bền của văn học theo cách nói chung. Đó là một vấn đề gần như sinh học, vấn đề của nhịp điệu tự nhiên mà xã hội loài người phải tuân theo - có lẽ đó chính là sinh thái học chăng. Người ta không thể ngăn cản sự pha trộn giữa người với người, giữa những thể loại, giữa những nền văn hóa. Nếu số phận của tiểu thuyết là phải biến mất, thì ngay cả Viện Hàn lâm Pháp cũng không thể ngăn cản sự tiêu vong này.


(Nguồn: l’Express) / theo bảo linh/ evan.com.vn